Di căn xương là gì? Các công bố khoa học về Di căn xương
Căn xương là một thuật ngữ trong y học, được sử dụng để miêu tả triệu chứng đau nhức hoặc đau nhẹ dọc theo một hoặc nhiều xương. Căn xương thường xuất hiện sau ...
Căn xương là một thuật ngữ trong y học, được sử dụng để miêu tả triệu chứng đau nhức hoặc đau nhẹ dọc theo một hoặc nhiều xương. Căn xương thường xuất hiện sau khi xương gặp phải áp lực hoặc chấn thương do nhồi máu không đủ, vi khuẩn, viêm nhiễm hoặc tổn thương. Triệu chứng căn xương có thể bao gồm đau, nhức nhối, sưng hoặc khó chịu tại vị trí xương bị tổn thương. Để chẩn đoán căn xương đúng, cần thực hiện các xét nghiệm và khám tổng quát để xác định nguyên nhân cụ thể của triệu chứng.
Căn xương có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm:
1. Áp lực hoặc chấn thương: Khi xảy ra chấn thương hoặc áp lực mạnh lên một hoặc nhiều xương, có thể gây ra căn xương. Ví dụ: ngã, va đập, hoặc tai nạn giao thông.
2. Vi khuẩn hoặc viêm nhiễm: Những xương bị nhiễm khuẩn hoặc viêm nhiễm có thể gây ra căn xương. Ví dụ: vi khuẩn Streptococcus hoặc Staphylococcus có thể lan vào xương và gây nhiễm trùng xương.
3. Tổn thương mô mềm xung quanh xương: Các mô mềm xung quanh xương như gân, cơ hoặc mô liên kết có thể bị tổn thương hoặc viêm nhiễm, gây ra căn xương. Ví dụ: viêm khớp, viêm mô liên kết.
4. Tổn thương căn xương mãn tính: Một số nguyên nhân mãn tính như xương bị căng thẳng dài hạn, viêm giai đoạn cuối hoặc tổn thương mô mềm không được điều trị thích hợp có thể gây căn xương.
Triệu chứng căn xương thường bao gồm đau thường xuyên hoặc đau nhức tại vùng xương bị tổn thương, có thể cảm thấy sưng, đau nhẹ khi chạm vào và khó chịu khi thực hiện các hoạt động vận động. Đôi khi còn có thể xuất hiện đỏ, nóng, hoặc tê tại vùng xương bị tổn thương.
Để chẩn đoán căn xương, bác sĩ thường tiến hành kiểm tra lâm sàng, xem xét sự gia tăng đau khi áp lực lên xương, và yêu cầu các xét nghiệm bổ sung như chụp X-quang, cắt lớp vi tính (CT scan), hoặc từ quang (MRI) để đánh giá tình trạng xương và các cấu trúc xung quanh.
Điều trị căn xương tùy thuộc vào nguyên nhân cụ thể. Điều trị có thể bao gồm việc nghỉ ngơi, đặt nặng, sử dụng các thuốc giảm đau, thuốc kháng viêm, hoặc điều trị nhiễm trùng bằng kháng sinh. Trường hợp nghiêm trọng có thể yêu cầu phẫu thuật hoặc các biện pháp điều trị tùy chỉnh khác. Quan trọng là điều trị căn xương ngay từ ban đầu để ngăn chặn sự tổn thương hoặc mục tiêu chữa khỏi nguyên nhân gây căn xương.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "di căn xương":
Nghiên cứu này nhằm mục đích xác định dấu hiệu biểu hiện gen trong tế bào gốc huyết học CD34+ đa năng ở bệnh u tủy xương tự phát (IM), từ đó cung cấp những hiểu biết mới về căn nguyên bệnh lý và/hoặc thông tin chẩn đoán/dự đoán. Các gen được điều chỉnh bất thường đã được phát hiện thông qua phân tích vi thể so sánh transcriptome của tế bào CD34+ bình thường và tế bào CD34+ trong IM; các gen đã chọn cũng được kiểm tra trong bạch cầu hạt. Một trăm bảy mươi bốn gen biểu hiện khác biệt đã được xác định và một phần được xác thực thông qua phương pháp phản ứng chuỗi polymerase định lượng. Biểu hiện gen bị thay đổi được xác minh thông qua việc phát hiện sự biểu hiện protein màng CD9 hoặc CD164 cao bất thường, và CXCR4 thấp, trong tế bào CD34+ ở IM. Theo phân tích dự đoán lớp, một tập hợp tám gen (CD9, GAS2, DLK1, CDH1, WT1, NFE2, HMGA2, và CXCR4) đã nhận diện chính xác IM từ tế bào CD34+ bình thường. Những gen này cũng bị điều chỉnh bất thường trong các bạch cầu hạt ở IM và có thể được phân biệt đáng tin cậy với các bạch cầu hạt trong đa hồng cầu thật và tăng tiểu cầu thiết yếu ở 100% và 81% trường hợp, tương ứng. Biểu hiện bất thường của HMGA2 và CXCR4 trong bạch cầu hạt của IM phụ thuộc vào sự có mặt và tình trạng đột biến của đột biến JAK2V617F. Mức độ biểu hiện của cả CD9 và DLK1 có liên quan đến số lượng tiểu cầu, trong khi mức độ biểu hiện WT1 cao hơn xác định các bệnh nhân IM có mức độ bệnh hoạt động cao hơn, như được tiết lộ bởi số lượng tế bào CD34+ tăng và điểm độ nghiêm trọng cao hơn. Tóm lại, phân loại phân tử của tế bào CD34+ trong IM đã phát hiện một số lượng hạn chế các gen với biểu hiện bị thay đổi mà, ngoài vai trò tiềm năng của chúng trong sinh bệnh lý bệnh, còn có liên quan đến các đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân và có thể có ứng dụng chẩn đoán tiên đoán tiềm năng.
Sự thay đổi trong biểu hiện và phân bố của các lamin hạt nhân đã được nghiên cứu trong quá trình phân hóa tế bào cơ C2C12. Biểu hiện của hầu hết các lamin không thay đổi trong quá trình myogenesis. Ngược lại, biểu hiện của lamin-B2 tăng lên trong khi biểu hiện của LAP2α giảm đi gấp hai lần. Những thay đổi này có tương quan với khả năng hòa tan giảm và sự phân bố lại của các lamin loại A. Khi tế bào cơ C2C12 được chuyển gen với một đột biến lamin-A gây ra bệnh loạn dưỡng cơ di truyền trội tự động Emery-Dreifuss (AD-EDMD), protein đột biến tích tụ trong chất nhân và có tác động chiếm ưu thế lên các lamin nội sinh. Các tế bào cơ được chuyển gen với lamin kiểu hoang dã vẫn phân hóa, mặc dù chậm hơn, trong khi các tế bào cơ được chuyển gen với lamin đột biến không thể phân hóa. Sự phân hóa tế bào cơ yêu cầu quá trình khử phosphoryl hóa protein retinoblastoma Rb. Trong quá trình myogenesis, Rb đã được khử phosphoryl hóa một cách nhanh chóng và dần dần. Rb ít phosphoryl hóa tạo thành các phức hợp với LAP2α trong các tế bào cơ đang tăng sinh và các tế bào cơ sau phân bào. Trong các tế bào cơ được chuyển gen với các lamin đột biến, phức hợp này bị gián đoạn. Những dữ liệu này cho thấy rằng việc tái cấu trúc của khung nucleoskeleton là cần thiết cho sự phân hóa cơ xương và cho việc điều chỉnh đúng các con đường Rb.
Đau xương do ung thư (CIBP) là biến chứng đau đớn và phổ biến nhất ở bệnh nhân có di căn vào xương. Nó gây ra sự giảm sút đáng kể về chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Các phương pháp điều trị giảm đau hiện có cho CIBP, chẳng hạn như opioid nhắm vào hệ thần kinh trung ương, đi kèm với những tác dụng phụ nghiêm trọng cũng như nguy cơ lạm dụng và nghiện. Do đó, rất cần các phương pháp điều trị thay thế cho CIBP. Mặc dù các cơ chế chính xác của CIBP vẫn chưa được làm sáng tỏ hoàn toàn, các nghiên cứu gần đây sử dụng các mô hình tiền lâm sàng đã chỉ ra vai trò của vi môi trường tủy xương (ví dụ: tế bào hủy xương, tế bào tạo xương, đại thực bào, tế bào mast, tế bào gốc trung mô và nguyên bào sợi) trong sự phát triển của CIBP. Một số thử nghiệm lâm sàng đã được thực hiện dựa trên những phát hiện này. CIBP là một tình trạng phức tạp và khó khăn hiện chưa có các phương pháp điều trị hiệu quả tiêu chuẩn ngoài opioid. Rõ ràng cần có thêm các nghiên cứu để hiểu sâu hơn về tình trạng đau đớn này và phát triển các liệu pháp nhắm mục tiêu hiệu quả và an toàn hơn.
Nghiên cứu này được thiết kế để đánh giá tỷ lệ và các yếu tố nguy cơ tái phát nách (AR) và tái phát trên xương đòn (SR) ở bệnh nhân ung thư vú đã thực hiện phẫu thuật cắt bỏ hạch bạch huyết nách.
Nghiên cứu dựa trên 1.180 bệnh nhân mắc ung thư vú xâm lấn đơn bên đã được phẫu thuật từ tháng 1 năm 2000 đến tháng 12 năm 2003. Thời gian theo dõi trung vị là 78 tháng.
Tỷ lệ AR trong 7 năm là 0,7% và tỷ lệ SR là 1,3%. Mười hai trong số 14 bệnh nhân SR và 4 trong số 8 bệnh nhân AR đã có các tái phát xa đồng thời. Không có yếu tố nguy cơ nào được xác định cho AR. Độ phân loại mô học khối u III cũng như sự âm tính của estrogen và progesterone là các yếu tố nguy cơ cho SR. SR, nhưng không phải là AR, là một yếu tố nguy cơ độc lập đối với sống còn cụ thể ung thư vú kém [tỷ lệ nguy cơ, 10,116;
AR và SR là những sự kiện hiếm gặp thường được phát hiện đồng thời với di căn xa. Các trường hợp SR liên quan đến bệnh lý ác tính và tỷ lệ sống sót kém. Kết quả của chúng tôi cũng gợi ý rằng xạ trị vùng làm giảm các tái phát vùng ở bệnh nhân N2–N3 nhưng không ở bệnh nhân N1, tuy nhiên, thiết lập nghiên cứu hồi cứu, không ngẫu nhiên đã làm cho kết luận này trở nên không chắc chắn.
Định vị cuộn bằng chụp cắt lớp vi tính (CT) dưới sự hướng dẫn trước phẫu thuật thường được sử dụng để hỗ trợ phẫu thuật cắt bỏ mô chẩn đoán bằng nội soi video (VATS) cho các nốt phổi (PNs). Khi một nốt phổi bị chặn bởi xương bả vai (SBPN) được định vị, việc thực hiện định vị cuộn xuyên xương bả vai (TSCL) thường được tiến hành. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã điều tra tính an toàn, tính khả thi và hiệu quả lâm sàng của phương pháp TSCL CT-guided trước phẫu thuật cho các SBPN.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10